Đặc Điểm Của Sản Xuất Nông Nghiệp Lâm Nghiệp Và Thủy Sản

Đặc Điểm Của Sản Xuất Nông Nghiệp Lâm Nghiệp Và Thủy Sản

Step 1: Total ways to select 5 integers out of 20 = 20C5. Step 2: Ways to select 10 and 20 = 2C2. Step 3: Ways to select 3 integers from the remaining 18 = 18C3. Step 4: Probability = (2C2 * 18C3) / 20C5.

Step 1: Total ways to select 5 integers out of 20 = 20C5. Step 2: Ways to select 10 and 20 = 2C2. Step 3: Ways to select 3 integers from the remaining 18 = 18C3. Step 4: Probability = (2C2 * 18C3) / 20C5.

Vai trò của nông nghiệp tại Việt Nam

Nông nghiệp đóng vai trò vô cùng quan trọng đối với kinh tế, xã hội của Việt Nam. Nông nghiệp bao gồm trồng trọt, chăn nuôi, thủy sản và lâm nghiệp. Khí hậu nhiệt đới, đất đai màu mỡ, nguồn nước dồi dào và đa dạng sinh học phong phú là những điều kiện quan trọng để sau 40 năm “Đổi mới”  thực hiện cải cách kinh tế, ngành nông nghiệp Việt Nam đã phát triển theo hướng thương mại đa dạng, đáp ứng nhu cầu trong nước và thế giới. Hiện nay, Chính phủ đang đẩy mạnh chương trình tái cơ cấu toàn diện ngành nông nghiệp trong bối cảnh nông nghiệp Viêt Nam đang đứng trước ngã rẽ của cả cơ hội và thách thức.

Thu hái quả thanh long. Ảnh do Lucas Jans chụp. Được cấp phép theo CC BY-SA 2.0

Về kinh tế, GDP nông nghiệp chiếm khoảng 13,96% tổng GDP năm 2019. Tuy nhiên, con số này phản ánh mức giảm đều từ 38,06% năm 1986, cho thấy sự chuyển đổi sâu sắc của nền kinh tế Việt Nam. Trong giai đoạn 2001 – 2013, tốc độ tăng trưởng của ngành nông nghiệp là 3,57%/năm, cao hơn và ít biến động hơn so với các nước châu Á khác. Từ một đất nước bị nạn đói đe dọa, Việt Nam hiện đứng thứ 2 ở Đông Nam Á và thứ 15 trên toàn cầu về xuất khẩu nông sản. Kim ngạch xuất khẩu nông sản tăng vọt từ 4,2 tỷ đô la Mỹ năm 2004 lên 41,3 tỷ đô la Mỹ năm 2019, chiếm 15,68% tổng kim ngạch xuất khẩu quốc gia. Các nông sản xuất khẩu hàng đầu của Việt Nam là gạo, cà phê, hạt tiêu, chè, hạt điều, cao su, sắn, thủy sản, và đồ nội thất. Thị trường xuất khẩu nông sản của Việt Nam chủ yếu là Trung Quốc, Châu Âu, Mỹ, ASEAN, Nhật Bản và Hàn Quốc.

Biểu 1: Đóng góp vào GDP theo từng ngành kinh tế của Việt Nam giai đoạn 1986-2019 (%). Nguồn: Tổng Cục thống kê Việt Nam

Biểu 2: Tăng trưởng Nông nghiệp của Việt Nam và các nước láng giềng (%). Nguồn: World Development Indicators.

Về mặt xã hội, ngành nông nghiệp giúp đảm bảo an ninh lương thực quốc gia, cung cấp đủ lương thực cho dân số 96,48 triệu người, thông qua gạo – lương thực chính của Việt Nam. Sự sẵn có về thực phẩm bình quân tính theo đầu người của Việt Nam ở mức cao trong số các nước thu nhập trung bình.

Biểu 3: Cân bằng cung cầu gạo quốc gia của Việt Nam giai đoạn 1986-2010 (triệu tấn). Nguồn: Ngân hàng thế giới.

Biểu 4: Mức cung thực phẩm hàng ngày ở một số nước châu Á, 1961-2009 và 2009 – 2030 (dự báo). Đơn vị: Kcal/người/ngày. Ước tính theo hàm logarit. Nguồn: Ngân hàng thế giới

Theo lịch sử từ xưa đến nay, ngành nông nghiệp luôn là ngành sử dụng lao động nhiều nhất, tỉ lệ lao động trong nông nghiệp chiếm 65% lực lượng lao động theo thống kê năm 2000. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, con số này đã giảm đáng kể, xuống còn 47,4% vào năm 2012 và 39,4% vào năm 2019. Gần 50% các hộ gia đình làm nông nghiệp ở nông thôn năm 2016 cho biết nguồn thu nhập chính của họ vẫn từ nông nghiệp, mặc dù tỉ lệ này giảm từ 68% năm 2006. Chuyển đổi nông nghiệp đã góp phần xóa đói giảm nghèo ở nông thôn, thông qua tăng thu nhập từ các hoạt động phi trồng trọt, đặc biệt ở các nhóm dân tộc thiểu số.

Ngành nông nghiệp cũng là ngành chiếm tỷ lệ lớn trong sử dụng tài nguyên thiên nhiên, như đất, nước, rừng và các nguyên liệu thô khác, phần lớn đã được phân bổ lại cho phát triển công nghiệp và đô thị.

Biểu 5: Đóng góp của Nông nghiệp trong thu nhập của hộ gia đình nông thôn, phân theo dân tộc và vùng (%). Nguồn: Tổng cục thống kê Việt Nam

Cánh đồng rau. Ảnh do Dennis Jarvis chụp. Được cấp phép theo CC BY-SA 2.0

Có thể nói, ngành nông nghiệp đã góp phần ổn định chính trị – xã hội, công nghiệp hóa và hiện đại hóa Việt Nam trong 40 năm qua, đặc biệt đóng vai trò “lưới bảo vệ” cho toàn bộ nền kinh tế trong thời kỳ khủng hoảng. Ngành nông nghiệp tiếp tục thực hiện chức năng này trong đại dịch COVID-19 năm 2020, thông qua việc phân phối lương thực cho người nghèo và người thất nghiệp, ổn định giá tiêu dùng, mang lại việc làm thay thế và tạo doanh thu xuất khẩu. Dự báo của ADB chỉ ra rằng kinh tế Việt Nam sẽ tiếp tục tăng trưởng nhanh nhất ở châu Á cho dù chịu tác động của COVID-19. Tuy nhiên, nhóm người dễ bị tổn thương nhất, đặc biệt là người di cư, phụ nữ và người lao động tự do, cũng như người dân tộc thiểu số sống ở khu vực nông thôn sẽ là đối tượng chịu ảnh hưởng nặng nề nhất của đại dịch này. Chính phủ đã tung ra gói cứu trợ COVID-19 dành cho các nhóm dễ bị tổn thương, nhưng chỉ áp dụng được cho những đối tượng yếu thế được Chính phủ công nhận.

Tác động của chính sách nông nghiệp hiện nay

Tăng trưởng trong ngành nông nghiệp cho đến nay vẫn gắn liền với chiến lược thúc đẩy tăng trưởng thông qua mở rộng diện tích, tăng số lượng cây trồng, khai thác tài nguyên thiên nhiên (đất, nước, rừng) và phụ thuộc nhiều vào lao động và các yếu tố hóa học trong sản xuất (phân bón và thuốc trừ sâu) mà không quan tâm nhiều đến tính bền vững.

Biểu 6: Lượng tiêu thụ NPK trên héc ta đất canh tác tại một số nước Châu Á (kg). Nguồn: World Development Indicators.

Kết quả là tăng trưởng đang chậm lại, dựa trên số lượng hơn là chất lượng và giá trị gia tăng. Tăng trưởng GDP nông nghiệp giảm từ 4,17% năm 2002 xuống 4,01% năm 2011; còn 2,72% vào năm 2012 và 2,67% vào năm 2013.[1] Tỷ lệ nghèo không còn giảm đáng kể như trước, đây là một xu hướng mới sau nhiều năm có tỉ lệ nghèo trung bình giảm 2% hàng năm.

Ở thời điểm hiện tại, khó có thể thấy rõ sự cải thiện về lợi ích từ công cuộc giảm nghèo, những lợi ích hiện có chủ yếu đến tay người Kinh và những người ở khu vực thành thị và đồng bằng. Bất bình đẳng giữa các vùng miền đã và đang gia tăng; nghèo đói ngày càng tập trung ở các cộng đồng dân tộc thiểu số và người không có đất. Ngoài ra, thành tựu kinh tế đi kèm với thiệt hại về môi trường, như phá rừng, cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên và mất đa dạng sinh học, suy thoái đất và ô nhiễm nước. Những hậu quả này là thách thức nghiêm trọng đối với Việt Nam trên con đường đạt được Mục tiêu phát triển bền vững (SDGs) vào năm 2030.

Biểu 7: Điểm nóng môi tường nông nghiệp Việt Nam. Nguồn: Ngân hàng thế giới.

Ngành nông nghiệp hiện đang đối mặt với những cơ hội và thách thức mới. Trong khi hội nhập quốc tế và xu hướng tiêu dùng thay đổi đã mở ra thị trường trong nước, khu vực và quốc tế, ngày càng có nhiều lo ngại vấn đề đạo đức trong sản xuất thực phẩm, an toàn và nguồn gốc thực phẩm. Tuy nhiên, vẫn có động lực tiếp tục đẩy mạnh phát triển ngành nông nghiệp hàng hóa và đổi mới công nghệ được coi là phương tiện hiệu quả nhất để khắc phục những hạn chế về tài nguyên thiên nhiên, tăng chi phí lao động và đầu tư vốn thấp. Biến đổi khí hậu và những hệ lụy từ môi trường vẫn đang là một thách thức, do các tác động bất lợi đến sản xuất, đòi hỏi phải có các điều chỉnh và thích ứng phù hợp. Nhận thức rõ về tình hình này, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn (Bộ NN & PTNT) đã tích hợp nội dung giảm thiểu và thích ứng với biến đổi khí hậu vào tất cả các kế hoạch và chiến lược của mình, bao gồm Khung chương trình thích ứng với biến đổi khí hậu trong giai đoạn 2008-2020, Kế hoạch hành động về biến đổi khí hậu cho phát triển nông nghiệp và nông thôn giai đoạn 2016-2020, Kế hoạch hành động tăng trưởng xanh cho nông nghiệp và phát triển nông thôn đến năm 2020 và gần đây nhất là Kế hoạch hành động thực hiện Hiệp định Paris về biến đổi khí hậu trong giai đoạn 2021-2030 của Bộ NN & PTNT.

Bên cạnh đó, Chính phủ Việt Nam đã thực hiện Chương trình Tái cơ cấu ngành nông nghiệp năm 2013, và kế hoạch cập nhật 2017, nhằm thúc đẩy phát triển bền vững về kinh tế, xã hội và môi trường. Chương trình Tái cơ cấu ngành nông nghiệp đẩy mạnh chuyển đổi từ sản xuất theo định hướng số lượng sang kinh doanh nông nghiệp trên cơ sở nhu cầu thị trường và nâng cao giá trị gia tăng với chi phí môi trường thấp. Nói cách khác, chương trình này có mục tiêu giúp ngành nông nghiệp “tăng giá trị, giảm đầu vào”, tức là đạt được giá trị kinh tế với ít nguồn lực hơn (tài nguyên, nhân công). Để làm được điều này sẽ cần phải sử dụng đất và nước hiệu quả cao hơn, chuyển đổi sang thực hành nông nghiệp dựa trên kiến ​​thức và kỹ năng nhiều hơn, tận dụng tốt hơn lợi thế kinh tế theo quy mô và phạm vi trong chuỗi giá trị, và thay đổi cơ bản về chức năng và hiệu quả hoạt động của chính phủ. Sự chuyển đổi này cần những cải cách kinh tế trên quy mô lớn hơn, bao gồm những thay đổi trong chính sách vĩ mô và chính sách ngành (ví dụ về sử dụng đất) và thay đổi trong các thể chế (ví dụ như hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước, ngân hàng và các tổ chức liên quan đến khoa học và công nghệ), sự phối hợp của các bên liên quan cùng với sự phân cấp phân quyền và điều phối của Chính phủ.

Giá trị sản phẩm nông, lâm nghiệp và thủy sản trên 1ha đất là tổng giá trị các sản phẩm: nông nghiệp (cây hàng năm, cây lâu năm, chăn nuôi, sản phẩm phụ); lâm nghiệp và thủy sản thu hoạch trên 1 ha đất trong khoảng thời gian nhất định (thường là một năm), bao gồm cả sản phẩm bán ra và không bán ra.

Đất sản xuất nông nghiệp bao gồm đất trồng cây hàng năm và đất trồng cây lâu năm.

– Đất trồng cây hàng năm là đất sử dụng với mục đích chính là trồng các loại cây cho thu hoạch và kết thúc chu kỳ sản xuất trong thời gian không quá một năm; kể cả cây hàng năm được lưu gốc và trường hợp trồng cây hàng năm theo chế độ canh tác không thường xuyên theo chu kỳ. Đất trồng cây hàng năm bao gồm đất trồng lúa và đất trồng cây hàng năm khác.

+ Đất trồng lúa là ruộng và nương rẫy trồng lúa từ một vụ trở lên hoặc trồng lúa kết hợp với các hoạt động khác như luân canh lúa và cây hàng năm khác, luân canh trồng lúa và nuôi thủy sản, trồng lúa kết hợp nuôi trồng thủy sản nhưng trồng lúa là mục đích chính. Đất trồng lúa bao gồm:

(i) Đất chuyên trồng lúa nước là ruộng trồng lúa nước (gồm cả ruộng bậc thang), hàng năm cấy trồng từ hai vụ lúa trở lên, kể cả trường hợp có luân canh, xen canh với cây hàng năm khác hoặc có khó khăn đột xuất mà chỉ trồng cấy được một vụ hoặc không sử dụng trong thời gian không quá một năm;

(ii) Đất trồng lúa nước còn lại là ruộng trồng lúa nước (gồm cả ruộng bậc thang), hàng năm chỉ trồng được một vụ lúa, kể cả trường hợp trong năm có thuận lợi mà trồng thêm một vụ lúa hoặc trồng thêm cây hàng năm khác hoặc do khó khăn đột xuất mà không sử dụng trong thời gian không quá một năm;

(iii) Đất trồng lúa nương là đất chuyên trồng lúa trên sườn đồi, núi dốc từ một vụ trở lên, kể cả trường hợp trồng lúa không thường xuyên theo chu kỳ và trường hợp có luân canh, xen canh với cây hàng năm khác.

+ Đất trồng cây hàng năm khác là đất trồng các cây hàng năm không phải là trồng lúa, như: cây lương thực có hạt khác ngoài lúa; cây lấy củ có chất bột; cây lấy sợi; cây có hạt chứa dầu; rau các loại (rau lấy lá, dưa lấy quả, rau họ đậu, rau lấy quả khác, rau lấy củ, rễ hoặc thân, nấm các loại, củ cải đường và các loại hạt, đậu/đỗ các loại), hoa hàng năm, cây hàng năm khác). Các loại cây lưu gốc như mía, đay, gai, cói, xả,… được tính vào nhóm cây hàng năm. Đất trồng cây hàng năm gồm:

(i) Đất bằng trồng cây hàng năm khác là đất bằng phẳng ở đồng bằng, thung lũng, cao nguyên để trồng cây hàng năm khác.

(ii) Đất nương rẫy trồng cây hàng năm khác là đất trồng cây hàng năm khác trên sườn đồi, núi dốc, kể cả trường hợp trồng cây hàng năm khác không thường xuyên nhưng theo chu kỳ.

– Đất trồng cây lâu năm là đất sử dụng vào mục đích trồng các loại cây được trồng một lần, sinh trưởng và cho thu hoạch trong nhiều năm, bao gồm:

+ Cây công nghiệp lâu năm: Là cây lâu năm cho sản phẩm dùng làm nguyên liệu để sản xuất công nghiệp hoặc phải qua chế biến mới sử dụng được như cây cao su, ca cao, cà phê, chè, điều, hồ tiêu, dừa,…;

+ Cây ăn quả lâu năm: Là cây lâu năm cho sản phẩm là quả để ăn tươi hoặc kết hợp chế biến như cây bưởi, cam, chôm chôm, mận, mơ, măng cụt, nhãn, sầu riêng, vải, xoài,…;

+ Cây gia vị, dược liệu, hương liệu lâu năm là cây lâu năm cho sản phẩm làm dược liệu như đinh hương, vani, hoa nhài, hoa hồi, ý dĩ, tam thất, sâm, sa nhân, đinh lăng, đỗ trọng, long não,…;

+ Cây lâu năm khác: trôm, dâu tằm, cau,…;

Đất nuôi trồng thủy sản là đất được sử dụng với mục đích chính để nuôi trồng thủy sản nước lợ, nước mặn và nước ngọt. Đất nuôi trồng thủy sản bao gồm diện tích bờ bao, diện tích mặt nước nội địa (thả nuôi, ao lắng, ao lọc), diện tích mặt nước ven biển; diện tích các công trình phụ trợ. Đất nuôi trồng thủy sản bao gồm cả đất mặt nước ven biển nuôi trồng thủy sản.

– Đất trồng cây hàng năm bao gồm cả đất trồng hoa, đất trồng cây lâu năm bao gồm cả đất trồng cây cảnh lâu năm;

– Đất sản xuất nông nghiệp bao gồm cả đất trồng cây trong nhà kính, nhà lưới;

– Danh mục sản phẩm nông, lâm nghiệp và thủy sản được quy định chi tiết tại Hệ thống ngành sản phẩm Việt Nam.

Giá trị sản phẩm nông, lâm nghiệp và thủy sản trên 1 ha đất sản xuất nông nghiệp/đất nuôi trồng thủy sản

Diện tích đất sản xuất nông nghiệp/đất nuôi trồng thủy sản

– Tổng giá trị sản phẩm nông, lâm nghiệp và thủy sản theo giá hiện hành trên một diện tích đất nhất định (triệu đồng): là tổng giá trị sản lượng của các loại cây hàng năm, cây lâu năm, chăn nuôi, lâm nghiệp, thủy sản và sản phẩm phụ thu được trên đất đó. Giá trị sản lượng của mỗi sản phẩm được tính bằng sản lượng thu hoạch nhân với giá bán bình quân của người sản xuất;

– Diện tích đất sản xuất tính riêng theo từng loại đất (đất sản xuất nông nghiệp, đất nuôi trồng thủy sản) với đơn vị tính là ha.

2. Phân tổ chủ yếu: Loại đất (đất sản xuất nông nghiệp, đất nuôi trồng thủy sản).

– Điều tra diện tích cây nông nghiệp;

– Điều tra năng suất, sản lượng cây nông nghiệp;

– Điều tra giá sản phẩm nông, lâm nghiệp và thủy sản;

– Tổng điều tra nông thôn, nông nghiệp;

– Điều tra nông thôn, nông nghiệp giữa kỳ.

5. Cơ quan chịu trách nhiệm thu thập, tổng hợp

– Phối hợp: Sở Tài nguyên và Môi trường.